Các nội dung đổi mới giáo dục Việt Nam rất nhiều, nhưng vấn đề mà tác giả bài này cho là gốc rễ, quan trọng nhất là: mô hình giáo dục nào được chọn cho lần đổi mới giáo dục rất được trông đợi và kỳ vọng này? Đây là “vấn đề của mọi vấn đề”.
TS Lương Hoài Nam đề xuất giáo dục Việt Nam nên lựa chọn theo mô hình giáo dục nước Anh Tác giả bài này rất băn khoăn với ý kiến của một số người trong cuộc nói rằng các cơ quan chức năng đã nghiên cứu hàng chục mô hình giáo dục trên thế giới và không chọn mô hình giáo dục của một nước nào hết, rằng nước ta sẽ xây dựng một mô hình giáo dục riêng của Việt Nam, kế thừa những gì tốt của các mô hình tiên tiến và phù hợp với các điều kiện thực tiễn của nước ta. Tóm lại là chúng ta sẽ sáng tạo!
Câu hỏi là liệu chúng ta có đủ trình độ, hiểu biết để sáng tạo một mô hình giáo dục đủ tốt cho Việt Nam hay không?
Tác giả bài này e là không. Chúng ta có nhiều chuyên gia giáo dục và mỗi người biết tốt một số vấn đề giáo dục, nhưng e rằng nước ta vẫn chưa có các "tổng công trình sư giáo dục", những người có đủ kiến thức, kinh nghiệm thiết kế một mô hình giáo dục đồng bộ, chất lượng như các mô hình tiên tiến trên thế giới.
Nếu giao cho các nhà giáo dục Việt Nam khác nhau đánh giá, so sánh các mô hình giáo dục trên thế giới, e rằng kết quả đánh giá, so sánh của họ cũng sẽ khác nhau đáng kể.
Nếu như mọi thứ hay ho, tiên tiến của thế giới đều có thể dễ dàng "vận dụng một cách sáng tạo" thì nước ta đã tự làm được tất cả mọi thứ và trở nên giàu mạnh từ lâu rồi (kể cả việc tự sản xuất máy bay, tàu ngầm hay tàu vũ trụ).
Nhưng vấn đề không phải như thế, không đơn giản như thế. Chúng ta có thể liệt kê hàng loạt thất bại của các chương trình "vận dụng một cách sáng tạo" trong các lĩnh vực. Giáo dục không phải là lĩnh vực ngoại lệ.
Nhìn nhận một cách thẳng thắn, nền giáo dục Việt Nam trong suốt lịch sử chưa bao giờ có tính độc lập cao. Nó luôn luôn dựa trên mô hình, tư tưởng giáo dục của quốc gia có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam trong từng giai đoạn. Đây cũng là điều bình thường trên thế giới.
Trong thời kỳ phong kiến, giáo dục Việt Nam chịu ảnh rất hưởng lớn của nền giáo dục Trung Hoa. Trong thời kỳ Pháp thuộc và đến tận ngày thống nhất đất nước, hệ thống giáo dục ở miền Bắc nước ta thừa kế đáng kể hệ thống giáo dục Pháp. Sau khi đất nước thống nhất, giáo dục Việt Nam được chuyển dịch về mô hình giáo dục Liên-xô.
Sau khi Liên-xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, giáo dục Việt Nam bắt đầu chịu sự tác động của các nền giáo dục khác (đặc biệt về giáo dục – đào tạo sau phổ thông).
Có thể nói rằng, qua những giai đoạn "điều chỉnh" như vậy, nền giáo dục của Việt Nam hiện nay ở các bậc học là tập hợp chắp vá của nhiều hệ thống, tư tưởng giáo dục khác nhau: Trung Hoa, Pháp, Liên-Xô, Anh, Mỹ..., tùy bậc học và chương trình học.
Nếu các nhà giáo dục nước ta để ý, không khó để họ nhận ra rằng khi tự chi tiền cho con cái đi du học nước ngoài, hầu hết các gia đình Việt Nam chọn các nước theo mô hình giáo dục Anh: Anh, Mỹ, Úc, Singapore, New Zealand, Canada...
Số học sinh, sinh viên đi du học tại các nước khác như Pháp, Đức,Thuỵ Sỹ, Hà Lan, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... không nhiều trong tổng số du học sinh Việt Nam và thường theo các chuyên ngành hẹp mà các nước đó có thế mạnh.
Điều đó cho thấy các gia đình Việt Nam nhìn chung tin tưởng và đánh giá cao mô hình giáo dục Anh. Nếu có điều kiện, họ sẵn sàng đầu tư cho con cái học hành theo mô hình giáo dục Anh ở một nước phát triển.
Về đại cương, hệ giáo dục Anh bao gồm 6 năm tiểu học và 5 năm trung học (chương trình trung học "nén" là 4 năm). Sau khi kết thúc trung học, tuỳ thuộc kết quả một kỳ thi chung, học sinh được chọn theo học hệ cao đẳng học nghề (polytechnic) 3 năm, hoặc dự đại học 2 năm để thi vào các trường đại học (university, college) với thời gian học đại học 3 năm (ngoại trừ một số ngành đặc biệt có thời gian học dài hơn).
So với chương trình phổ thông trung học ở nước ta hiện nay, học sinh tiết kiệm 01 năm (hoặc 02 năm nếu theo chương trình "nén"). Số môn học ở các lớp trung học cũng ít hơn và học sinh được chọn các môn học (ngoài 3-4 môn học bắt buộc).
Như vậy, học sinh trung đã bắt đầu được hướng nghiệp qua việc lựa chọn các môn học mình yêu thích và có thế mạnh. Số môn học các năm cuối cấp trung học chỉ khoảng 7-8 môn (thay vì 12-13 môn theo chương trình hiện nay của Việt Nam), cho phép các em học sâu hơn các môn này.
Chương trình dự bị đại học 2 năm (chương trình "nén" 1,5 năm) cũng cho phép học sinh chọn học 7-8 môn học phù hợp với định hướng ngành học đại học, tuy nhiên, học sinh cũng có quyền chọn học nhiều môn hơn.
Khả năng thích ứng của mô hình giáo dục Anh đã được khẳng định không chỉ ở các nước có nền văn hoá Anh như Mỹ, Canada, Úc, New Zealand, mà còn ở cả các nước châu Á có sự khác biệt lớn về văn hoá như Singapore, Malaysia...
Các em học sinh, sinh viên Việt Nam học ở các nước theo mô hình giáo dục Anh cũng không gặp khó khăn đáng kể và thường đạt kết qủa học tập tốt.
Nếu hỏi ý kiến các gia đình Việt Nam xem họ có muốn con cái được học theo mô hình giáo dục Anh hay không, tác giả bài này tin rằng phần đông các gia đình sẽ ủng hộ.
Vấn đề chỉ là ngành giáo dục Việt Nam có khẳng định được năng lực thực hiện với một lộ trình hợp lý hay không (về nhân lực, chương trình, cơ sở vật chất...)?
Giáo dục Anh là một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất trên thế giới và nước nào áp dụng được nó đều đạt được những thành tựu phát triển tốt. Nó đáng để Việt Nam nghiên cứu kỹ và cố gắng áp dụng.
Nếu theo hướng này và thực hiện một cách đồng bộ, đợt đổi mới giáo dục lần này sẽ thoát khỏi tình trạng chắp vá, thực sự mang tính "căn bản và toàn diện".
Theo VTC